Chủ Nhật, 30 tháng 9, 2007


Đôi điều đặc biệt về truyện Kiều



Vĩnh Tuấn


Có lẻ chưa có tác phẩm nào trong kho tàng văn chương VN đươc nhắc đến nhiều như truyện Kiều của cụ Nguyễn Du. Với mong muốn cung cấp thêm cho những người yêu truyện Kiều đôi điều đặc biệt trong tác phẩm bất hủ này. Chúng ta thử tìm hiểu xem cái tài của cụ Nguyễn Du trong việc dùng những câu đối (đối âm, đối ý) những câu dùng ba, bốn, năm điêp ngữ (để biểu thị gía trị biểu cảm của câu thơ ) và những chữ đồng thanh biệt nghĩa vô cùng tinh tế hầu giúp người đọc cảm nhận được hết cái hay, cái đẹp của người xưa


.NHỮNG CÂU CÓ BA HAY BỐN,NĂM ĐIỆP NGỮ

(Dùng để biểu thị giá trị biểu cảm của câu thơ)


242 Hiên tá gác bóng nghiêng nghiêng, Nỗi riêng, riêng chạnh tất riêng một mình

259 Bâng khuâng nhớ cảnh nhớ người, nhớ nơi kỳ ngộ vội dời chân đi

279 cây, đá, sẵn sàng, hiên lãm thúy, nét vàng chưa phai

471 So dần dâydây văn, Bốn dây to nhỏ theo vần cung thương

487 Khi tựa gối, khi cúi đầu, khi vò chín thúc,khi chau đôi mày

537Gót đầu mọi nỗi đinh ninh, nỗi nhà tang tóc,nỗi mình xa xôi

557Còn non còn nước còn dài, Còn về còn nhớ đến người hôm nay

561 Ngại ngùng một bước một xa, môt lời trân trọng châu xa mấy hàng

579 Già giang một lão một trai, một dây vô lại buột hai thâm tình

602 Duyên hội ngộ, đức cù lao, bên tình bên hiếu bên nào nặng hơn

697 Phận dầu, dầu vậy cũng dầu, Xót lòng đeo đẳng bấy lâu một lời

727 Kể từ khi gặp chàng Kim, khi ngày quạt ước,khi đêm chén thề,

803 Đêm thu một khắc một chầy,Bâng khuân như tỉnh như say một mình

883 Khi về bỏ vắng trong nhà, khi vào đồi đọa, khi ra vội vàng

885 Khi ăn khi nói lỡ làng, khi thầy khi tớ,xem thường xem khinh

951 Dạy rằng con lạy mẹ đây, Lạy rồi sang lạy cậu mày bên kia

1067 Giá đành trong nguyệt trên mây, Hoa sao, hoa khéo đọa đày bấy hoa

1145 Nhưng tôi có sá chi tôi , Phận tôi dành vậy vốn người để đàu

1175 Nàng rằng: thôi thế thì thôi, Rằng không,thì cũng vâng lời rằng không

1205 Mụ rằng: ai cũng như ai, Người ta ai mất tiền hoài đến đây

1234 Khi tỉnh rượu, lúc tàn canh, Giât mình, mình lại thương mình xót xa

1243 Cảnh nào cảnh chằng đeo sầu, Người buồn, cảnh có vui đâu bao gìờ

1272 Đã cho lấy chữ hồng nhan, Làm cho, làm hại, cho tàn cho cân

1284 Hải đường mơn mỡn cành tơ, Ngày xuân càng gió, càng mưa, càng nồng

1383 Hương càng đượm, lửa càng nồng, Càng xôi vẽ ngọc càng lồng màu sen

1617 Làm cho, cho mệt, cho mê, Làm cho đau đớn ê chề cho coi

1741 Xót thay đào lý một cành, một phen mưa gió,tan tành một phen

1873 Bắt khoan,bắt chặt đến lời, bắt qùy tận mặt, bắt mời tận tay

1877 Chước đâu rẻ thuý chia uyên, ai ra đường nấy, ai nhìn được ai

2113 Nàng càng mặt ủ mày châu ,càng nghe mụ nói, càng đau như dần

2120 Cùng đường dù tính chữ tòng, biết người biết mặt, biết lòng làm sao

2139 Cũng nhà hành viện xưa nay, cũng phường bán thịt,cũng tay buôn người

2359 Đàn bà dễ có mấy tay, Đời xưa mấy mặt đời này mấy gan

2383 Trước Bạch Hạnh ,Bạc bà,Bên Ưng, Khuyển,bên Sở Khanh

2408 Bảo cho hội họp chi kỳ, năm nay là một, nữa thì năm năm

2604 Nàng càng ủ liễu phai đào, trăm phần, nàocó, phần nào phần tươi

2674 Oan kia theo mãi với tình, Một mình mình biết, một mình mình hay

2809 Sinh càng trông thấy càng thương , Gan càng tức tối, ruột càng xót xa

  1. Này chồng, này mẹ, này cha, Này là em ruột, này là em dâu

  1. Huyên già dưới gối gieo mình, Khóc than , mình kể sự mình đầu đuôi

  1. Còn duyên , may lại còn người, Còn vầng trăng bạc,còn lời nguyền xưa

  1. khi biến, khi thường,quyền,nào phải một đường chấp kinh

3143 Tình nhân lại gặp tình nhân, Hoa xưa ong cũ mấy phân chung tình

3223 Khi chén rượu, khi cuộc cờ , khi xem hoa nở, khi chờ trăng lên


***




Sau đây là những câu có những điều đối nhau: (cú-trung-đối)

06 Trời xanh quen thói, má hồng đánh ghen

10 Bốn phương phẳng lặng, hai kinh vững vàng

18 Một người một vẽ, mười phân vẹn mười

20 Khuông trăng đầy đặng, nét ngời nở nang

22 Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da

26 Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh

28 Sắc đành hòa một, tài đành hòa hai

30 Pha ghề thi họa, đủ mùi ca ngâm

44 Lễ là tảo mộ, hội là đạp thanh

48 Ngưạ xe như nước, áo quần như nêm

50 Thoi vàng vó rắc, tro tiến giấy bay

86 Ngày xanh mòn mỏi, má hồng phôi pha

104 Sầu tuôn dứt nối, châu sa vắng dài

114 Bóng chiều đã ngã, dặm về còn xa

116 Thác là thể phách, còn là tinh anh

128 Chớ nề u hiển, mới là chị em

150 Văn chương nết đất, thông minh tánh trời

152 Vào trong phong nhã, ra ngoài hào hoa

160 Gặp tuần đố lá, thỏa lòng tìm hoa

164 Tình trong như đã, mặt ngoài còn e

166 Rốn ngồi chẳng tiện, dứt về chỉn khôn

174 Vàng gieo đáy nước, cây lồng bóng sân

176 Giọt sương gieo nặng, cành xuân la đà

232 Bài ra thế ấy, vịnh vào thế kia

238 Chưa xong điều nghĩ, đã dào mạch tương

252 Mặt mơ tưởng mặt, lòng ngao ngán lòng

254 Trúc xe ngòi thỏ, tơ trùng phiếm loan

256 Hương gây mùi nhớ, trà khan giọng tình

268 Cạn dòng lá thắm, dứt đường chim xanh

276 Buồn không để đó, người xa chưa về

292 Hương còn thơm nức, người đà vắng tanh

318 Xuyến vòng đôi chiếc, khăn là một vuông

322 Kẻ nhìn rõ mặt, người e cúi đầu

332 Thói nhà băng tuyết, chất hằng phỉ phong

348 Chiều xuân dễ khiến, nét thu ngại ngùng

362 Chàng về viện sách, nàng dời lầu trang

364 Tình càng thấm thía, dạ càng ngẩn ngơ

366 Bên trông đầu nọ, bên chờ cuối kia

396 Góp lời phong nguyệt, nặng nguyền non sông

410 Chẳng sân ngọc bội, thời phường kim môn

424 Lòng xuân phới phới, chén xuân tàng tàng

434 Ngọn đèn trong suốt, trướng huỳnh hắt hiu

438 Bóng trăng đã xế, hoa lê lại gần

446 Đài sen nối sáp, lư đào thêm hương

448 Tóc mây một món, dao vàng chia đôi

454 Giải là hương lộn, bình gương bóng lồng

478 Một rằng Lưu Thủy, hai rằng Hành Vân

480 Nửa phần luyến chúa, nửa phần tư gia

488 Khi vò chín khúc, khi chau đôi mày

538 Nổi nhà tang tóc, nổi mình xa xôi

542 Dám xa xôi mặt, mà thưa thớt lòng

550 Chưa vui sum họp, đã sầu chia phôi

552 Dẫu thay mái tóc, dám dời lòng tơ

564 Mối sầu xẻ nửa, bước đường chia hai

566 Đầu cành quyên nhặt, cuối trời nhạn thưa

572 Hoa trôi giạt thắm, liễu xơ xát vàng

580 Một dây vô lại, buộc hai thâm tình

582 Rụng rời giọt liễu, tan tành gối mai

590 Tiếng oan dậy đất, án ngờ lòa mây

592 Điếc tai lân tuất, phủ tay tồi tàn

620 Liệu đem tấc cỏ, quyết đền ba xuân

628 Mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao

634 Thềm hoa một bước, lệ hoa mấy hàng

636 Nhìn hoa bóng thẹn, trông guơng mặt dày

638 Nét buồn như cúc, điệu gầy như mai

640 Ép cung cầm nguyệt, thử bài quạt thơ

558 Trao tơ phải lứa, gieo cầu đáng nơi

660 Này ai vu thác, cho người hợp tan

662 Nỡ đày đọa trẻ, càng oan khốc già

664 Thôi thì mặt khuất, chẳng thà lòng đau

678 Hoa dù rã cánh, lá còn xanh cây

682 Tan nhà là một, thiệt mình là hai

686 Tờ hoa đã ký, cân vàng mới trao

692 Lễ tâm đã đặt, tụng kỳ đã xong

696 Áo dầm giọt lệ, tóc se mái sầu

708 Làm thân trâu ngựa, đền nghì trúc mai

712 Dầu chong trắng đĩa, lệ tràn thấm khăn

728 Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề

732 Xót tình máu mủ, thay lời nước non

742 Đốt lò hương ấy, so tơ phiếm này

746 Nát thân bồ liễu, đền nghì trúc mai

758 Một hơi lạnh ngắt, đôi tay lạnh đồng

762 Mới giầu cơm vựng, chưa phai giọt hồng

772 Dẫu mòn bia đá, dám sai tấc vàng

782 Lệ đâu thấm áo, tơ chia rũ tằm

794 Thiệt lòng khi ở, đau lòng khi đi

816 Giã danh hầu hạ, dạy nghề ăn chơi

823 Sính nghi rẻ giá, nghênh hôn sẵn ngày

852 Phần căm nỗi khách, phần nhơ nỗi mình

860 Một mình thì chớ, hai mình thì sao

870 Vó câu khấp khểnh, bánh xe gập ghềnh

884 Khi nào dùng dắng, khi ra vội vàng

906 Kía gương nhật nguyệt, nọ dao quỉ thần

912 Bạc phau cầu giá, đen rầm ngàn mây

942 Đêm đêm hằn thực, ngày ngày nguyên tiêu

944 Xôn xao anh yến, dập dìu trúc mai

946 Đưa người cửa trước, rước người cửa sau

958 Đã khi chung chạ, lại khi đứng ngồi

984 Mụ còn trông mặt, nàng đà quá tay

992 Cắn người coi sóc, rước thầy thuốc than

998 Người dù muốn quyết, trời nào đã cho

1026 Đến điều sống đục, sao bằng thác trong

1036 Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia

1060 Hình dong chải chuốt, áo khăn diu dàng

1076 Cám lòng chua xót, nhạt tình chơ vơ

1080 Nhờ tay tế độ, với người trầm luân

1082 Nỗi nhà báo đáp, nỗi thân lạc loài

1120 Gió cây rút lá, trăng ngàn ngậm gương

1132 Vút đâu xuống đất, cánh đâu lên trời

1140 Uốn lưng thịt đỗ, giập đầu máu sa

1150 Bắt người bảo lĩnh, làm tờ cung chiêu

1185 Kẻ chê bất nghĩa, người cười vô lương

1208 Nỗi đêm khép mỡ, nỗi ngày riêng chung

1210 Vành ngoài bảy chữ, vành trong tám nghề

1232 Sớm đưa tống ngọc, tối tìm tràng khanh

1242 Nữa rèm tuyết ngậm, bốn bề trăng thâu

1246 Cung cầm trong nguyệt, nước cờ dưới hoa

1250 Ngẩn ngơ trăm mối, giùi mài một thân

1252 Chẳng vò mà rối, chẳng dần mà đau

1282 Vẻ nào chẳng mặn, nết nào chẳng ưa

1290 Trước còn trăng gió, sau ra đá vàng

1296 Bầu tiên chuốc rượu, câu thần nối thơ

1298 Bàn vây điểm nước, đường tơ họạ đàn

1316 Lời lời châu ngọc, hàng hàng gấm thêu

1350 Trước hàm sư tử, gởi người đằng la

1358 Đành thân phận thiếp, nghĩ danh giá chàng

1366 Đá vàng cũng quyết, phong ba cũng liều

1374 Cậy tay thầy thợ, mượn người dò la

1382 Càng sâu nghĩa bể, càng dài tình sông

1384 Càng xôi vẽ ngọc, càng lồng màu sen

1390 Nặng lòng e ấp, tính bài phân chia

1392 Dạy cho má phấn, lại về lầu xanh

1428 Đào hoen quẹn má, liễu tang tác mày

1430 Gương lờ nước thủy, mai gầy vóc sương

1434 Có nghe lời trước, chớ đà lụy sau

1466 Kiệu hoa cất gió, đuốc hồng điểm sao

1474 Đào đà phai thắm, sen vừa nảy xanh

1480 Mặn tình cát lũy, lạt tình tào khang

1484 Ở vào khuông phép, nói ra mối giường

1486 Dễ dò rốn bễ, khôn lường đáy sông

1492 Trước người đẹp ý, sau ta biết tình

1512 Lớn ra uy lớn, tôi đành phận tôi

1525 Nữa in gối chiếc, nữa soi dặm trường

1536 Miệng cười đã lắm, tin nhà thì không

1538 Trách người đen bạc, ra lòng trăng hoa

1540 Cũng dong kẻ dưới, mới là lượng trên

1558 Gớm tay thêu dệt, ra lòng trêu ngươi

1570 Chữ tình càng mặn, chữ duyên càng nồng

1588 Đã dơ bụng nghĩ, lại bia miệng cười

1592 Đèn khuya chung bóng, trăng tròn sánh vai

1596 Một niềm quan tái, mấy mùa gió trăng

1604 Thành xây khói biếc, non phơi bóng vàng

1608 Nỗi chàng ở bạc, nỗi mình chịu đen

1630 Biết đâu ấm lạnh, biết đâu ngọt bùi

1632 Nào lời non nước, nào lời sắt non

1666 Nghĩ con vắng vẻ, thương người nết na

1672 Tro than một đống, nắng mưa bốn tường

1676 Tơ tình đức ruột, lửa phiền cháy gan

1678 Con người thế ấy, thác oan thế này

1684 Phi phù trí quỉ, cao tay thông huyền

1692 Mặt nàng chẳng thấy, việc nàng chẳng tra

1700 Sự nàng đã thế, lời thầy dám tin

1716 Cửa nhà đâu mất, lâu đài nào đây

1730 Chẳng loài trốn chúa, thì quân lộn chồng

1740 Thịt nào chẳng nát, gan nào chẳng kinh

1784 Sớm năng nỉ bóng, đêm ngơ ngẩn lòng

1832 Suy lòng trắc dĩ, đau lòng chung thiên

1838 Bắc quì tận mặt, bắc mời tận tay

1840 Giọt dài giọt ngắn, chén đầy chén vơi

1844 Khuyên chàng chẳng cạn, thì ta có đòn

1848 Chửa xong cuộc rượu, lại bày trò chơi

1856 Người ngoài cười nụ, người trong khóc thầm

1878 Hết điều khinh trọng, hết lời thị phi

1880 Gỡ cho ra nợ, còn gì là duyên

1900 Rằng::tài nên trọng, mà tình nên thương

1904 Hửu tài thương nỗi, vô duyên, lạ đời

1910 Rắp đem mệnh bạc, xin nhờ cửa Không

1926 Dường gần rừng tía, dường xa bụi hồng

1930 Ngày pho thủ tự, đêm nhồi tâm hương

1936 Nói lời trước mặt, rơi châu vắng người

1948 Trông vào đau ruột, nói ra ngại lời

1966 Ấy là tình nặng, ấy là ân sâu

1978 Nói lại lời nói, lời chưa hết lời

1986 Tìm hoa quá bước, xem người viết kinh

2000 Nỗi ông vật vã, nỗi nàng thở than

2012 Chào người vui vẻ, nói năng dịu dàng

2030 Tiếng gà điểm nguyệt, dấu giày cầu sương

2032 Phần e đường sá, phần thương dãi dầu

2054 Muối dưa đắp đổi, tháng ngày thong dong

2056 Hương đèn thạo việc, trai phòng quen tay

2058 Ngọn đèn khêu nguyệt, tiếng chày nện sương

2060 Sư càng nể mặt, nàng càng vững chân

2062 Bóng hoa đầy đất, vẻ ngân ngang trời

2094 Lấy lời hung hiểm, ép duyên Châu Trần

2106 Thật thà có một, đơn sai chẳng hề

2112 Trái lời nẻo trước, lụy mình đến sau

2130 Quét sân đặt trác, rửa bình thắp nhang

2140 Cũng phường bán thịt, cũng tay buôn người

2148 Cũng thần mày trắng, cùng phường lầu xanh

2158 Đã xoay đến thế, còn vần chưa tha

2164 Cũng liều mặt phấn, cho rồi ngày xanh

2168 Vai năm tất rộng, thân muời thước cao

2170 Côn quyền hơn sức, lược thao gồm tài

2174 Gươm đàn nữa gánh, non sông một chèo

2176 Tấm lòng nhi nữ, cũng xiêu anh hùng

2178 Hai bên cũng liếc, hai lòng cũng ưa

2210 Đặt giường thất bảo, xây màn bát tiên

2212 Phỉ nguyền sánh phượng, đẹp duyên cưỡi rồng

2234 Cỏ cao hơn thước, liểu gầy vài phân

2242 Dấu lìa ngó ý, còn vương tơ lòng

2266 Hoa quân chớp chới, hà y rở ràng

2268 Trúc tơ kéo trước, kiệu vàng kéo sau

2280 Cũng may giây cát, được nhờ bóng cây

2286 Thì thùng trống trận, rập rình nhạc quân

2308 Lòng lòng cũng giận, người người chấp uy

2312 Vệ trong thị lâp, cơ ngoài song phi

2314 Bác đồng chật đất, tinh kỳ rợp sân

2408 Năm nay là một, nữa thì năm năm

2410 Đã tin điếu trước, ắt nhằm việc sau

2426 Dễ đem gan óc, đền nghì trời mây

2432 Lọ là thâm tạ, mới là tri ân

2436 Cho người biết mặt, là ta cam lòng

2442 Gồm hai văn võ, rạch đôi sơn hà

2476 Đã nhiều lưu lạc, lại nhiều gian truân

2482 Nở nang mày mặt, rỡ ràng mẹ cha

2486 E dè gió đập, hãi hùng sóng va

2490 Tưới ra đã khắp, thấm vào lại sâu

2502 Hẹn kỳ thúc giáp, quyết đường giải binh

2504 Ngọn cờ ngơ ngác, trống canh trễ tràng

2510 Lễ nghi giàn trước, bác đồng phục sau

2514 Ba bề phát súng, bốn bên kéo cờ

2536 Nàng vừa phục xuống, Từ liền ngã ra

2550 Dọc ngang trời rộng, vẫy vùng bể khơi

2552 Đem thân bách chiến, làm tôi triều đình

2566 Xôn xao tơ trúc, hội đồng quân quan

2592 Quan trên trông xuống, người ta xem vào

2602 Lá màn rủ thấp, ngọn đèn khêu cao

2606 Cướp công cha mẹ, thiệt đời thông minh

2630 Xót vì việc nước, mà ra phụ lòng

2642 Chờ cho hết kiếp, còn gì là thân

2658 Tu là cõi phúc, tình là dây oan

2664 Ở không yên ổn, ngồi không vững vàng

2668 Thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần

2670 Kề lưng hùm sói, gởi thân tôi đòi

2672 Trước hàm rồng cá, gieo mồi thuỷ tinh

2682 Mắc điều tình ái, khỏi điều tà dâm

2686 Biết điều khinh trọng, biết lời phải chăng

2690 Nhẹ nhàng nợ trước, đền bồi duyên sau

2700 Đóng thuyền chực bến, kết chài giăng sông

2708 Tuy dần hơi nước, chưa lòa bóng gương

2716 Kiếp xưa đã vậy, lòng này dễ ai

2718 Bán mình là hiếu, cứu người là nhân

2724 Duyên xưa đầy đặn, phúc sau dồi dào

2734 Gió trăng mát mặt, muối dưa chay lòng

2746 Song trăng quạnh quẽ, vách mưa rã rời

2750 Cỏ lan mặt đất, rêu phong dấu giày

2768 Lau treo rèm nát, trúc gài phên thưa

2770 Càng ngao ngán nổi, càng ngơ ngẩn dường

2782 Cực trăm nghìn nỗi, dặn ba bốn lần

2792 Chàng Kim về đó, con thì đi đâu

2796 Dầm dề giọt ngọc, thẩn thờ hồn mai

2802 Đã đành phận bạc, khôn đền tình chung

2810 Gan càng tức tối, ruột càng xót xa

2826 Cắt người tìm tỏi, đưa tờ nhắn nhe

2832 Như nung gan sắt, như bào lòng son

2836 Máu theo nước mắt, hồn lìa chiêm bao

2846 Càng sâu duyên mới, càng dào tình xưa

2848 Tuôn châu đòi trận, vò tơ trăm vòng

2852 Trầm bay nhạt khói, gió đưa lay rèm

2854 Tiếng kiều đồng vọng, bóng xiêm mơ màng

2862 Hoa chào ngõ hạnh, hương bay dặm phần

2872 Nghĩ mình vinh hiển, thương người lưu ly

2874 Quan sơn nghìn dặm, thê nhi một đoàn

2904 Hơn người trí dũng, nghiên trời uy linh

2908 Oán thì trả oán, ân thì trả ân

2910 Trước sau trọn vẹn, xa gần ngợi khen

2920 Đánh quen trăm trận, sức dư muôn người

2932 Xót thân chìm nổi, đau lòng hợp tan

2934 Mảnh hương còn đó, phím đàn còn đây

2954 Sóng êm Phúc Kiến, lửa tàn Tích giang

2986 Lâm tri buổi trước, tiền đường buổi sau

2998 Kiếp sau hoạ thấy, kiếp này hẳn thôi

3010 Xuân già còn khoẻ, huyên già còn tươi

3048 Đã tu tu trót, qua thì thì thôi

3064 Hai bên gặp gỡ, một lời kết giao

3074 Còn vần trang bạc, còn lời nguyền xưa

3084 Dẫu lòng kia vậy, còn lời ấy sao

3086 Dưới giày có đất, trên cao có trời

3094 Hoa thơm phong nhị, trăng vòng tròn gương

3100 Mấy trăng cũng khuyết, mấy hoa cũng tàn

3102 Đã xong thân thế, còn toan nỗi nào

3104 Dám đem trần cấu, dự vào bố kinh

3110 Đem tình cầm sắt, đổi ra cầm cờ

3112 Đã buồn cả ruột, mà nhơ cả đời

3122 Tan sương đầu ngõ, vén mây giữa trời

3132 Hoa soi ngọn đuốc, hồng chen bức là

3136 Bâng khuân duyên mới, ngậm ngùi tình xưa

3154 Vớt hương dưới đất ,bẻ hoa cuối mùa

3162 Còn tình đâu nữa, là thù đấy thôi

3160 Thì còn em đó, lọ cầu chị đây

3162 Chẳng cầm cho vững, lại giày cho tan

3168 Tưởng thề thốt nặng, Cũng đau đớn nhiều

3174 Một lời quyết hẳn, muôn phần kính thêm

3176 Là nhiều vàng đá, phãi tìm trăng hoa

3178 Lọ là chăn gối, mới ra sắt cầm

3198 Khói trầm cao thấp, tiếng huyền gần xa

3200 Ấy là hồ điệp, hay là Trang sinh

3202 Ấy hồn Thục đế, hay mình đổ quyên

3216 Gà đà gáy sáng, trời vừa rạng đông

3222 Chẳng trong chăn gối, cũng ngoài cầm thơ

3230 Rêu trùm kẻ gạch, cỏ lên mái nhà

3238 Một cây cù mộc, một sân quế hòe

3240 Vườn xuân một cửa, để bia muôn đời



***


Phi chăng có một mối liên hệ giữa những

Cầm tấu khúc của Thuý Kiều

với các danh phẩm cổ truyền Huế


Huơng giang nhất phiếm nguyệt

Thiên cổ hứa đa sầu

Nguyễn Du

VĨNH TUẤN

Lúc Kiều sơ ngộ Kim Trọng thấy dung quang người “Chẳng sân ngọc bội cũng phường Kim Môn”.Lại đoán số phận mình “ngàn thu bạc mệnh một đời tài hoa” rồi e ngại”Trăm năm biết có duyên gì hay không”. Cho nên nhân dip này mượn tiếng đàn để báy tỏ nỗi niềm với ườc mong nhân định thắng thiên

.

473.Khúc đâu Hán Sở chiến trường.


Sở vương Hạng Vũ đánh trăm trận trăm thắng chỉ thua một trận Cai Hạ mà bỏ thân tại Ô Giang , phó đại cuộc về tay Hán vương Lưu Bang, chẳng qua tài ba không hơn được số mạng .Thúy Kiều tấu khúc này làm cho ta liên tưởng đến bài Xuân Phong-Long Hồ, hai trong mười bài nổi tiếng “ Liễn bộ thập chương” cuả Nhã Nhạc cung đình Huế .

Mởđầu với hai câu rao:

Cuộc đời như ngọn gió xuân

Hổ Long quyết đấu chiến trường mà chi”

Để rồi:

Lòng dặn lòng .

Ai mặc ai .

Thương cứ thương .

Nhớ cứ nhớ .

Chuyện vui cuời .

Người ở đời .

Đừng đem dạ, đem dạ sầu tư.

Ai mà thoát khỏi ra vòng nợ duyên .


Rứa cũng nên .

Miễn cho bền .

Lòng chớ phiền .

Lửa càng đượm dám xin giữ gìn .

Khuyên ai, đừng phãi hương nguyền



.

475.Khúc đâu Tư Mã phượng cầu


Ông Tư Mã Tương Như vì yêu nàng Trác Văn Quân mà viết nên khúc hát: ”Phụng hề Phụng hề qui cố hương. Ngao du tứ hải cầu kỳ hoàng”

(Phượng ơi! Phượng ơi về cố hương. Dạo chơi bốn bể tìm người thương) . Trong nhạc truyền thống Huế có bài Lý con sáo : “ Ai đem con sáo sang sông . Để cho con sáo sổ lồng bay xa” chỉ với hai câu lục bát mà từ gốc Huế đã lan truyền qua nhiều cách thể hiện khác nhau: Lý con sáo Huế : buồn tủi, sầu thương. Lý con sáo Nam: ai oán giận hờn. Lý con sáo Bắc : xót xa tiếc nuối… Hính ảnh con sáo sổ lồng bay xa làm cho ta liên tưởng đến Phụng cầu hoàng của Tư Mã Tương Như với nổi niềm ai oán thiết tha đã làm xiêu lòng nàng Trác Văn Quân trở về với mình.


477.Kê Khang này khúc Quảng Lăng


Ông Kê Khang sinh về cuối đời nhà Ngụy thời Tam Quốc (221-264),gặp lúc vận nước Ngụy sắp nguy vong , bao nhiêu trung thần nghĩa sĩ đều bị ám hại . Trông thấy cuộc đời hiểm trở eó le, lắm nổi đau lòng ông mới chế ra khúc “Quảng Lăng Tán “ để nói về sự vô thường của đời người .”Một rằng Lưu thủy hai rằng Hành vân”,nước chảy mây bay chẳng định nơi.

Trong nhạc cổ truyuền Huế khi đàn hơi Khách thường được khởi nhạc bằng bài Lưu thủy , còn với hơi Nam thường được bắt đầu bằng bản Hành vân. Đây là hai bài căn bản nhất của người học nhạc truyền thống và phải chăng nó đã được sáng tác ra để hình dung tiếng đàn của Thúy Kiều qua khúc Quảng Lăng .


779.Quá quan này khúc Chiêu Quân


Vương Chiêu Quân là một cung nữ tài sắc vẹn toàn đời Hán Nguyên đế bị đem cống nạp cho Thuyền Vu ( tù trưởng quân Hung nô ) để đổi lấy hoà ước . Lúc qua đến đất Hồi , Chiêu Quân gảy khúc Quá quan làm mọi người đưa tiễn đều phải khóc.

Trong lịch sử nước ta cũng có Huyền Trân công chúa đã phải kết duyên cùng Chế Mân (1306) vua nước Chiêm Thành để đổi lấy hai châu Ô, Lý (Huế ngày nay)

Nước non ngàn dặm ra đi

Tội tình chi

Mượn màu son phấn đền nợ Ô Lý

Đắng cay vì đương độ xuân thì…”

(Theo điệu Nam Bình) vô cùng sầu thương,buồn thảm.


Sự liên tưởng ngẫu nhiên làm cho ta giật mình. Câu hỏi được đặc ra: Phải chăng có một số danh phẩm nhạc cổ truyền Huế đã được hình thành từ cảm hứng những cầm tấu khúc của Vương Thúy Kiều?