Thứ Ba, 24 tháng 2, 2009

Tiếng Tơ Đồng

VĨNH TUẤN_
________________
* Đàn tỳ bà (hậu thân của đàn Cầm): “Cầm Phục Hy sở tác,cổ vi ngũ huyền, hậu dụng tứ huyền, toàn huyền phàm thập tam huy” (Đàn cầm do vua Phục Hy chế ra, xưa là 5 dây, nay dùng 4 dây, thân đàn có 13 phím).
Sách Hoàng Đàm Tân Luận : “Phục Hy thị thủy tước đồng vi cầm, thằng ti vi huyền”.(Đời Thượng cổ; vua Phục Hy mới chẻ gổ Ngô Đồng làm thân đàn và xe tơ làm dây).
Về sau người Hồ nương theo cây đàn cầm để biến cải và đổi tên thành tỳ bà. Thích Danh “ Vị kỳ khí xuất ư Hồ trung m thượng sở cổ; Thôi thủ tiền viết Tỳ; Dẫn thủ khước viết Bà” (Sách Thích Danh gọi đàn này nguyên là quân Hồ cỡi ngựa mà đàn(*) đưa tay tới gọi là tỳ, kéo tay lui gọi là bà. Tỳ bà tứ huyền nhạc khí, nội hệ tế đồng điều vi đảm, thập tam phẩm, do Cầm chi huy vị. (Đàn tỳ bà 4 dây, trong thân đàn buộc một mảnh lá đồng, cũng 13 phím như đàn Cầm). Ngày nay đàn tỳ bà có mặt nhiều nước châu Á. Đàn tỳ bà du nhập vào Việt Nam vào khoảng thế kỉ 11. Về cấu trúc hình dng, cy đàn tỳ bà V.N nhỏ hơn đàn tỳ bà Trung Quốc. Trên đầu đàn có chạm hình con dơi và chỉ gắn 9 phím (thay vì 13 phím). Về tính năng, đàn tỳ bà V.N chú trọng những âm biến cung và những kỹ thuật rung, nhấn, luyến láy, cịn của Trung Quốc thì chủ yếu dng kỹ thuật reo dy, chạy nốt. Vì thế người Trung Quốc cầm đàn thẳng đứng còn người Việt Nam thì cầm đàn ngang.
. Người ta thường chúc nhau “ xe duyện cầm sắt” (sắt cầm hảo hợp, bách niên giai lo) “thì cầm chính là đàn tỳ bà làm bằng dây “tơ”, c òn “sắt” chính là đàn tranh làm bằng dây “đồng”!
Đàn tranh (hậu thân của đàn sắt):” Cổ vi ngũ thập huyền, huyền cát hữu trụ, khả thượng hạ di động.” (Đời xưa đàn này có 50 dây, mổi dây mỗi trục, giỡ lên, giỡ xuống được, vặn căng, vặn chùng được)
Tần nhân cổ sắt, huynh đệ tương tranh, phá chi nhi vị lưỡng. Tranh chi danh tự thử thủy. Tranh Tần thanh giả, Mông Điềm sở tạo thập lục huyền cầm. (Xưa người Tần đàn Sắt, có hai anh em giành nhau chẻ ra làm hai. Từ đấy mới gọi là tranh. Giọng đàn tranh là của người Tần do ông Mông Điềm chế thành 16 dây). Mông Điềm là vị đại tướng triều Tần Thủy Hoàng (246-209) người đã cùng thái tử Phò Tô xây nên Vạn Lý Trường Thành. Từ An Trinh: Hốt văn họa các Tần tranh dật. Tri thị lân gia triệu nữ đàn. (Bỗng nghe dậy tiếng tranh Tần. Biết là cô gái đông lân dạo đàn).
Vậy thì tiếng tơ đồng còn mang một ý nghĩa “xe duyên Cầm Sắt” vì sự hoà điệu gắn bó, tri âm tri kỷ của những người yêu nhau .

…………………………
(*) Như trong bài Lương Châu Từ của Vương Hàn: Bồ đào mỹ tửu dạ quang bôi/ Dục ẩm tỳ bà mã thượng thôi/ Túy ngọa sa trường quân mạc tiếu/ Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi.

Không có nhận xét nào: